Thanh Huyền Tiếng Trung

Thanh Huyền Tiếng Trung

Wir verwenden Cookies und Daten, um

Wir verwenden Cookies und Daten, um

Mâu thuẫn với Thái Bình công chúa

Công chúa Thái Bình trước kia ủng hộ Lý Long Cơ làm thái tử, vì cho rằng ông tuổi trẻ (khi làm thái tử thì ông 25 tuổi) và là người dễ dàng kiểm soát. Nhưng về sau, nhận thấy sự tài trí của Long Cơ, nên lại hối hận và muốn lật đổ ông. Hai bên rơi vào thế đối đầu nhau, chia làm hai phe phái trong triều. Nhiều lần bà ta nói với Đường Duệ Tông rằng Long Cơ không phải con trưởng, không nên cho ở ngôi Trừ, nhưng Duệ Tông không nghe. Công chúa còn mua chuộc đám người hầu cận, tìm cách bới móc những lỗi lầm của thái tử và người của bà ta trong triều thì lan truyền những đồn đãi không hay về thái tử. Ngoài ra công chúa còn cố liên minh với bọn tể thần Sầm Hi và Đậu Hoài Trinh; nhưng hai tể tướng khác là Ngụy Tri Cổ và Tống Cảnh quyết định không tham gia vào phe đảng của công chúa[24].

Đầu năm 711, Thái Bình công chúa nhiều lần tố cáo Long Cơ mưu phản, lại mua chuộc đại thần Vi An Thạch. Duệ Tông bắt đầu nghi ngờ thái tử, triệu An Thạch vào hỏi ý, nhưng An Thạch cố gắng khuyên can và bênh vực cho thái tử, nên bị Thái Bình ghét bỏ. Thái Bình tố cáo An Thạch, nhưng An Thạch được Quách Nguyên Chấn xin giúp nên không bị trị tội. Tống Cảnh cùng quan tể thần khác là Diêu Nguyên Chi cũng ủng hộ thái tử, tâu với Duệ Tông nên đưa các hoàng tử có khả năng tranh chấp ngai vàng, cùng Bân vương Lý Thủ Lễ - con Chương Hoài thái tử Lý Hiền ra làm Thứ sử các châu và an trí công chúa Thái Bình cùng các con ở Đông Kinh Lạc Dương, đồng thời trao quyền hành cho thái tử. Duệ Tông chấp nhận cho các hoàng tử ra khỏi kinh thành, song cho rằng Lạc Dương quá xa, nên dời công chúa cùng phu quân Võ Du Kị đến Bồ châu[Ghi chú 5]

Công chúa Thái Bình đang ở Sơn Tây, nghe vậy tức giận, uy hiếp Lý Long Cơ phải tố cáo Tống Cảnh và Diêu Nguyên Chi mưu phản. Biết mình thế yếu, Long Cơ phải chấp nhận, dâng tấu nói Tống, Diêu hai tướng có ý chia cắt tình anh em giữa Long Cơ với Thành Khí và Thủ Lễ (họ từng có thời gian lớn lên cùng nhau), xin xử tử hai người. Duệ Tông cuối cùng giáng chức Tống, Diêu, triệu hồi lại các thân vương bị đày cùng Thái Bình trở về kinh đô. Bấy giờ, bảy vị tể tướng trong triều có tới bốn là tay chân của Thái Bình (Đậu Hoài Trinh, Tiêu Chí Trung, Sầm Hi, Lục Tượng Tiên, Trừng Lan), chỉ còn hai người theo phe Long Cơ, thế lực của ông thua kém hẳn Thái Bình. Tháng 7 cùng năm, Long Cơ xin nhường ngôi thái tử cho anh là Thành Khí, Duệ Tông không chấp nhận. Long Cơ nhân đó xin cho Thái Bình về kinh, Duệ Tông vì muốn trấn an ông, đành phải chấp thuận. Sau đó Duệ Tông bắt đầu giao các việc nhỏ trong triều cho Lý Long Cơ giải quyết[24]. Cùng trong năm 711, Duệ Tông làm lễ cầu siêu cho Lưu thị và Đậu thị, cũng truy tặng cho Đậu thị làm Chiêu Thành hoàng hậu, lập miếu ở kinh sư, nhưng do thi thể của họ không được tìm thấy, nên phải cho an táng theo quy cách chiêu hồn[24].

Cuối Khai Nguyên và Thiên Bảo: mầm mống loạn lạc

Từ cuối đời Khai Nguyên, Minh Hoàng lao vào ăn chơi xa xỉ, lại sủng ái Quý phi Dương Thái Chân mà bỏ bê chánh sự, mầm mống của sự diệt vong dần xuất hiện. Để có chi phí cho chiến tranh, nhà Đường lại tăng mức sưu thuế mà nhân dân phải đóng góp, lại thêm nạn tham quan, nên đời sống nhân dân khổ cực hơn. Chính trị xuống dốc, gian thần Lý Lâm Phủ được trọng dụng, ngăn chặn đường tiến thân của kẻ sĩ, ý đồ độc chiếm triều đình. Bên ngoài, chính sách trong nặng ngoài nhẹ của Lý Lâm Phủ góp phần giúp cho thế lực ngoại tộc phát triển, An Lộc Sơn (người Đột Quyết) có thế lực ở Đông Bắc, phát triển thế lực, đến năm 755 phản Đường, gây ra Loạn An Sử. Nhà Đường do đó mà suýt nữa bị diệt vong.

Lực Sĩ cởi giày, Quý phi mài mực

Bấy giờ Đường Minh Hoàng nghe danh tiếng của Lý Bạch, nên hạ lệnh triệu tập ông ta đến Trường An phục vụ cho triều đình. Ở đây, nhiều đạo sĩ và văn nhân mến tài của Lý Bạch, trong đó có Hạ Tri Chương, người đã đặt cho ông biệt danh Trích Tiên giáng trần[146]. Đường Minh Hoàng nhiều lần thử tài Lý Bạch, cuối cùng cũng phải công nhận tài năng của ông ta, và tổ chức một bữa tiệc lớn để thết đãi, đích thân chuẩn bị món canh cho ông[146][147], và ban cho chức Học sĩ viện Hàn lâm. Vì Lý Bạch biết tiếng Phiên, nên Minh Hoàng đã nhờ ông viết giùm bức thư trả lời công văn của vua Thổ Phiên gửi sang. Lý Bạch mặt đỏ, liểng xiểng đi đến Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi ngoắc Dương Quốc Trung (có thuyết cho là Dương Quý phi) lại mài mực ông mới chịu viết. Hai người này đành phải làm theo[148].

Nhà vua dẫn Dương Quý phi ra ngắm hoa, sai nhạc đội ca hát, lại vời Lý Bạch đang say rượu vào viết lời nhạc chúc tụng cho Quý phi. Lý Bạch đang say viết liền 3 bài Thanh Bình điệu. Vua và Quý Phi rất thích. Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ căm giận bị Lý Bạch làm nhục, bèn lấy một đoạn trong bài, nói rằng Lý Bạch có ý so Quý phi với Triệu Phi Yến đời nhà Hán[149]. Nhà vua vì nể sợ Quý phi, đành phải đem vàng lụa ra tặng rồi đuổi khéo Lý Bạch về vườn[150].

Có truyền thuyết cho rằng sau khi dẹp xong An Lộc Sơn, Đường Minh Hoàng nhớ thương Dương Quý Phi không nguôi. Đêm rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, một vị tiên xuất hiện tình nguyện đưa vua đi gặp Quý Phi. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chấm mặt đất, nhà vua trèo lên cầu vồng đi lên cung Quảng, nhìn thấy Quý Phi xưa trong đoàn vũ. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu thưởng trăng nên còn gọi là Tết Ngắm Trăng[151][152].

, mẫu thư pháp duy nhất còn sót lại của Đường Minh Hoàng

Là một Hoàng đế đa tài về nghệ thuật, Đường Minh Hoàng đã để lại rất nhiều thành tựu về thư pháp và thơ ca. Đặc biệt, ông có một bài thơ nằm trong danh sách Đường thi tam bách thủ do học giả Tôn Thù (1722 - 1778) đời nhà Thanh sưu tập[153]. Bài thơ viết theo phong cách luật thi, thể loại hoài cổ, có tựa đề là "Kinh Lỗ, tế Khổng Tử nhi thán chi", đề cập đến Khổng Tử và Lỗ quốc thời Xuân Thu, bày tỏ sự tiếc nuối và hoài tưởng về quá khứ, và nói lên cái nhìn về sự sống và cái chết của tác giả.

Đường Minh Hoàng còn được biết đến là một người có tài năng thiên bẩm về âm nhạc[156], có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của âm nhạc dưới triều nhà Đường. Ông có thể tự diễn tấu các loại nhạc cụ như tì bà[157], yết cổ[158], có sở trường viết các ca khúc dài, nổi bật có "Nghê thường hữu y khúc", "Tiểu phá trận nhạc", "Xuân quang hảo", "Thu phong cao"... tổng cộng được hơn 100 nhạc khúc. Minh Hoàng mỗi khi rảnh rang việc nước thường ra vườn lê, dạy ca vũ, diễn xuất, đàn hát, thổi sáo... cho con em nhạc công. Kể từ đó người ta hay gọi đoàn hí kịch là lê viên, gọi diễn viên là "Lê viên đệ tử" (con em vườn lê); những gia đình đời đời theo đuổi nghệ thuật hí khúc là "Lê viên thế gia"; gọi giới hí khúc là "Lê viên giới"...[159]

Sơ đồ phả hệ tổ tiên Đường Minh Hoàng

Đường Minh Hoàng và Dương Quý phi đứng trên sân thượng ngắm cảnh, tranh của họa sĩ

Đường Huyền Tông Minh hoàng đế có rất nhiều Hoàng tử và Hoàng nữ, tổng cộng 52 người con, trong đó có 23 Hoàng tử[33] và 29 Hoàng nữ[213], chưa loại trừ đi số người chết yểu khi còn nhỏ. Danh sách được liệt kê dựa theo Đường thư, quyển 107 và Tân Đường thư, quyển 83:

Mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương quý phi là cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm thơ, văn, tiểu thuyết bất hủ của nền văn học Trung Hoa, như Trường hận ca của Bạch Cư Dị (thời Vãn Đường)[225], Trường hận ca truyện của Hòa Trần Hồng[226], Con đường lập thân xấu xa ở chốn quan trường (thời Nam Tống), Mai cơ (thời nhà Kim, Đường Minh Hoàng khóc túi hương, Đường Minh Hoàng dạo chơi cung trăng, La Quang Viễn mộng đoạn Dương quý phi, Ngô đồng vũ (thời nhà Nguyên), Thái Hàn cao, Kinh Hồng kí (thời nhà Minh), Tùy Đường diễn nghĩa của Chử Nhân Hoạch[228]:107, Trường sinh điện của Hồng Thăng (đời nhà Thanh). Trong đó, Trường hận ca được coi là một tuyệt tác về mối hận tình muôn thuở, dưới đây là một đoạn trích dẫn theo bản dịch của Tản Đà:[230]

Tác gia Lý Thương Ẩn thời Vãn Đường (813 - 858) có bài thơ "Long trì" những bài thơ châm biếm hành vi loạn luân cướp vợ của con của Đường Minh Hoàng (bản dịch của Bích Hải)

Ngoài ra Thương Ẩn còn có bài "Mã Ngôi" với ý trách một đại thiên tử như Đường Minh Hoàng đến cả một mĩ nhân bên cạnh cũng không thể bảo vệ (bản dịch của Trần Trọng San)[231]

Tương truyền Dương quý phi rất thích ăn lệ chi (vải), nên cứ đến mùa Minh Hoàng lại người dân đất Huệ Châu[Ghi chú 50] - một nơi nổi tiếng về vải ngon, phải vận chuyển vải vào kinh để vừa lòng quý phi, khiến nhiều người phải chết vì sơn lam chướng khí. Tác gia Tô Đông Pha thời Tống có bài "Lệ chi thán" trách Minh Hoàng về việc này (bản dịch của Hoàng Tạo)[232]